Nuôi tôm không phải là một công việc dễ dàng. Trong quá trình nuôi tôm thường xuất hiện rất nhiều loại bệnh khác nhau. Một trong số đó là EMS, hay Hội chứng chết sớm, còn được gọi là AHPNS hoặc Hội chứng hoại tử gan tụy cấp tính.
Dấu hiệu tôm bị bệnh gan, tôm bị nhiễm bệnh EMS
EMS/AHPNS, hay Hội chứng chết sớm/Hội chứng hoại tử gan tụy cấp tính. Hội chứng này thường xuất hiện ở giai đoạn tôm hậu ấu trùng và gây thiệt hại trong vòng 30 ngày đầu tiên thả giống.
Khi bệnh xuất hiện lần đầu tiên, nó chủ yếu giết chết tôm hậu ấu trùng (PL) trong trại giống và cuối cùng là chết tôm trong vòng 3 đến 4 tuần đầu tiên sau khi thả giống. Vì thế mới có tên “hội chứng tử vong sớm” (EMS). Tỷ lệ tử vong do mầm bệnh lây lan không chỉ ở giai đoạn hậu ấu trùng mà chúng còn xuất hiện trong các giai đoạn khác ở vụ nuôi. Tôm nhiễm bệnh thường có dấu hiệu bỏ ăn và gan tụy nhợt nhạt có biểu hiện tổn thương nghiêm trọng ở ống thận.
Nguyên nhân tôm bị nhiễm bệnh EMS
Tuy các thí nghiệm không đưa ra được nguyên nhân chính xác lây nhiễm bệnh nhưng nó có thể liên quan đến một số loại độc tố như Vibrio parahaemolyticus.., và một số nguyên nhân gây ra bệnh:
– Vibrio parahaemolyticus, mầm bệnh liên quan đến cấp tính hoại tử gan tụy (AHPN), có cả chất độc và chủng lành tính. Nó sinh sống ở dạ dày tôm trong màng sinh học, bảo vệ nó khỏi thuốc kháng sinh và các phương pháp điều trị khác. Như với V cholera, V. parahaemolyticus chịu được nhiều độ mặn, pH và nhiệt độ. Cả hai loài giống sinh vật phù du biển và có thể lây lan qua dòng chảy đại dương. V. parahaemo lyticus độc hại cũng đã được lan truyền qua tôm bố mẹ và hậu ấu trùng bị nhiễm bệnh.
– Bệnh là kết quả của sự tác động giữa đối tượng nuôi (trong trường hợp này là tôm), môi trường và mầm bệnh. Các yếu tố di truyền, loài, giai đoạn sống và tình trạng không có mầm bệnh đều góp phần.
– Mật độ nuôi cao, môi trường sống luôn thay đổi và khá phức tạp, thường xuyên bị căng thẳng cũng là một nguyên nhân gây ra bệnh.
– Việc cho tôm ăn quá nhiều sẽ dẫn đến dư thừa thức ăn, gây ô nhiễm môi trường làm thay đổi các thông số vật lý và hóa học của nước trong ao nuôi cũng là yếu tố dễ gây ra bệnh.
– Việc lạm dụng thuốc kháng sinh ở nuôi tôm đã là một vấn đề được quan tâm, mặc dù có chỗ cho việc sử dụng kháng sinh hợp lý, nhưng lạm dụng kháng sinh quá nhiều sẽ làm cho hệ sinh vật đường ruột của tôm bị kém vi khuẩn dễ xâm nhập và gây bệnh.
– Người nuôi tôm trên khắp thế giới đã áp dụng biện pháp khử trùng toàn bộ ao nuôi, thường là thông qua việc sử dụng hàm lượng clo cao, như một biện pháp để kiểm soát bệnh. Cách tiếp cận này đã được chứng minh là có hiệu quả trong việc tiêu diệt hệ vi khuẩn tự nhiên trong cột nước nhưng nó cũng tiêu diệt vi khuẩn trong trầm tích và các chất mang bám sâu hơn.
Giải pháp phòng trị tôm bị bệnh gan
Với mỗi đợt bùng phát dịch bệnh lớn ở tôm, đã có một số giải pháp được đưa ra và nhiều người nuôi đã tin về sự tiềm năng của giải pháp đó. Tuy nhiên, chúng ta không thể biết được giải pháp đó có thể sử dụng để xử lý bệnh lâu dài và phổ biến rộng rãi được hay không.
– Giải pháp cho vấn đề này đó là tăng cường đa dạng sinh học trong hồ chứa và ao.
– Bệnh tật là kết quả của sự tương tác giữa tôm nuôi, các môi trường và mầm bệnh. Nên cần phải có sự quản lý chủ động.
– Các sự phát triển của chuỗi polymerase Xét nghiệm phản ứng để phát hiện vi khuẩn gây EMS là quan trọng.
– Sử dụng các chất khử trùng một cách hợp lý cũng giúp kiểm soát mầm bệnh.
– Sử dụng kháng sinh hợp lý, tránh lạm dụng kháng sinh quá đà.
– Ngày càng có nhiều bằng chứng cho rằng chỉ cần sửa đổi các tập quán nuôi là có thể giải quyết được bất kỳ nguyên nhân cơ bản nào.
Cũng như các bệnh khác, hội chứng chết sớm/hội chứng gan tụy cấp tính ở tôm không phải một căn bệnh đơn giản, mà cả một quá trình hình thành bệnh, vì vậy khó có thể có một giải pháp xử lý duy nhất.
Các phương pháp được đề xuất để kiểm soát chúng là:
- Tôm bố mẹ phải được nuôi giữ an toàn sinh học và cố gắng hết sức để đảm bảo không cho chúng ăn thức ăn từ các ao khác bị nhiễm bệnh.
- Cần phải cẩn thận khi sử dụng clo để xử lý ao, hồ chứa nước… Không sử dụng clo để xử lý trước khi vào nuôi nhiều người sẽ e ngại khi cân nhắc. Nhưng phải sử dụng clo và các chất khử trùng khác 1 cách có khoa học, tránh lạm dụng quá nhiểu.
- Việc sử dụng các chất khử trùng 1 cách hợp lý rất quan trọng, nó giúp cho các hệ vi sinh vật khỏe mạnh thì khi VP (Vibrio parahaemolyticus) có thể hiện diện nó không có cơ hội sinh sôi nảy nở trong hệ vi sinh vật bị tổn thương.
- Việc phát triển các giống tôm có khả năng chịu đựng và thậm chí chống lại tác động của chất độc là rất quan trọng về lâu dài. Tôm có rất nhiều tiềm năng di truyền có thể khai thác được.
- Hiểu bản chất của bệnh lý là điều quan trọng để có thể xác định xem bệnh lý đặc trưng có xuất hiện ở ao tôm hay không.
- Cần sử dụng các phương pháp tiêu chuẩn để xác minh sự hiện diện của bệnh.
- Giảm thiểu căng thẳng mà vật nuôi phải chịu là điều cần thiết để giảm thiểu tác động của hầu hết các bệnh ảnh hưởng đến tôm. Tôm suy yếu nhìn chung sẽ dễ mắc nhiều loại bệnh khác nhau.
- Giảm thiểu căng thẳng bằng các cách sau sử dụng các giống tôm đã được lai tạo để chịu được nuôi tôm mật độ cao.
- Giảm thiểu căng thẳng khi cho ăn bằng cách sử dụng máy cho ăn tự động cũng sẽ làm giảm bớt căng thẳng tổng thể bằng cách đảm bảo rằng tôm nuôi có thể tiếp cận thức ăn một cách nhất quán và chúng có thể tiêu thụ hết tất cả thức ăn mà chúng cần.
- Lấy mẫu tôm nuôi hàng tuần để kiểm tra sức khỏe và cử nhân viên được đào tạo đến kiểm tra HP (Gan tuỵ) để phát hiện bệnh sớm và dùng biện pháp phòng ngừa bệnh tránh lây lan ra các ao khác.
- Mật độ nuôi tôm cao không có quy trình nuôi tốt sẽ làm tăng cơ hội lây lan bệnh.
- Việc sử dụng phương pháp xử lý sinh học thông qua phân phối các loài Bacillus như sản phẩm Kill para để giảm tích lũy chất hữu cơ có trong ao.
EMS có thể là một căn bệnh nguy hiểm, nhưng có các biện pháp an toàn sinh học, thường xuyên kiểm tra và quản lý trang trại cũng giúp chống lại bệnh và giảm tác động của nó. Nuôi tôm phải có sự chủ động trong phòng ngừa bệnh EMS cũng như các mầm bệnh khác.